Đã mấy chục năm trôi qua, nhưng mỗi khi nghĩ về thầy, tôi lại thấy day dứt. Không biết đến khi nào tôi mới quên được điều mà tôi đã gây ra cho thầy giáo tôi. Năm ấy, tôi học lớp 7, lớp cuối cấp II tại một ngôi trường nhỏ ven Hồ Tây. Lớp tôi được thầy giáo Phạm Tuấn Anh chủ nhiệm. Thầy vừa chủ nhiệm vừa dạy hai môn Toán, Lí. Chẳng biết có phải là giáo viên dạy giỏi không, nhưng thầy giảng bài rất dễ hiểu. Ngay cả đứa lười và dốt như tôi từ lúc nào cũng đã say mê hai môn học đó của thầy và cuối cùng được chọn đi thi học sinh giỏi. Công sức của thầy, sau này chúng tôi mới hiểu, còn ngay lúc đó, lũ học trò lười biếng, nghịch ngợm chúng tôi chỉ thấy vô cùng khó chịu vì bị thầy đưa vào khuôn phép. Giờ là giáo viên, tôi mới hiểu rằng làm một người tận tâm với học trò như thầy tôi quả thật là khó.
Thầy tôi có dáng người nhỏ bé, đôi mắt sáng, to càng như lồi ra trên khuôn mặt vừa gầy vừa đen. Nói chung, về hình thức của thầy, bọn chúng tôi chấm được có hai điểm. Có lẽ cũng vì vậy mà gần 40 tuổi thầy tôi vẫn chưa lấy vợ. Đã thế thầy lại rất nghiêm khắc.
Ngoài việc dạy ở trên lớp, mỗi tuần ba buổi tối, thầy bắt cả lớp đến trường học phụ đạo. Ngày ấy dạy phụ đạo làm gì có tiền bồi dưỡng như bây giờ. Những tối còn lại, thầy lại đạp chiếc xe cọc cạch đi hết nhà đứa này đến nhà đứa khác, kiểm tra xem chúng tôi có ngồi vào bàn học bài hay không. Ngày đó chẳng có điện thoại như bây giờ, vậy mà chẳng hiểu bằng cách nào, thầy biết hết tối hôm đó đứa nào không học bài. Sáng hôm sau, lên lớp, thầy trừng mắt, gọi những đứa đó lên bảng dò bài. Đứa nào cũng sợ chết khiếp nên cứ tối đến là phải ngồi vào bàn học nghiêm chỉnh. Có lẽ cũng chính vì thế mà lũ lười học chúng tôi không có thiện cảm với thầy. Đứa nào cũng hậm hực, tức tối với cái ông thầy vừa xấu xí vừa nghiêm khắc ấy. Chúng tôi nghĩ ra đủ mọi trò để trêu chọc sau lưng thầy, và trò của tôi là quái ác nhất.
Lúc đó tôi là lớp phó văn thể mỹ, ngày ngày tôi phải bắt nhịp cho cả lớp hát đầu giờ. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà nhìn đôi mắt to, lồi trên khuôn mặt hốc hác của thầy, tôi lại liên tưởng tới đôi mắt của con ếch. Thế là câu hát: “Kìa chú là chú ếch con, có hai là hai mắt tròn...” được tôi xuyên tạc thành: “Kìa chú là chú trố con, có hai là hai mắt lồi...”. Và thế là chúng tôi hát. Hôm nào cũng hát với một vẻ say sưa và hể hả lắm. Dường như tiếng hát làm nguôi đi phần nào nỗi hậm hực, tức tối của chúng tôi. Thế rồi từ đấy, lớp tôi gán cho thầy Tuấn Anh cái biệt danh là “Anh Trố”.
Rồi lớp chúng tôi tốt nghiệp cấp II với kết quả rất cao, không nói ra nhưng đứa nào cũng hiểu phần lớn đó là công sức của thầy chủ nhiệm. Chúng tôi chia tay thầy với tất cả lòng biết ơn và kính phục chân thành.
Tưởng rằng trò lếu láo của tôi đã đi vào dĩ vãng, ai ngờ... Ba năm sau, trong lần tiễn bạn tôi lên đường nhập ngũ, thoáng thấy bóng nhỏ bé, gầy gầy, đen đen của thầy Tuấn Anh ở sân ủy ban xã, tôi hăm hở định tới chào thầy. Bỗng, chẳng hiểu từ đâu trong đám đông phát ra hai tiếng rành rọt: “Anh Trố !”. Tiếng nói đó làm tôi giật mình, sững người lại. Mặt tôi nóng bừng lên như thể tiếng chêu trọc đó nhằm vào chính tôi vậy. Tôi vội vàng, lúng túng lẩn nhanh vào đám đông để khỏi bị thầy nhìn thấy, rồi hậm hực nhìn quanh, cố tìm ra kẻ dám nhẫn tâm trêu chọc một người đáng kính như thầy tôi. Tôi thầm rủa đứa vô ý thức nào đó mà quên đi rằng chính tôi là kẻ đầu têu vô ý thức nhất. Chắc thầy tôi đã nghe thấy nhưng giả làm ngơ. Lén nhìn qua vai mọi người, tôi thấy đôi mắt to, lồi trên khuôn mặt hốc hác của thầy không hiểu sao lại ẩn chứa một nét buồn mơ hồ.
Ra trường, tôi vào dạy học tại Đà nẵng. Nhiều năm đi dạy, tôi vẫn lấy thầy tôi ra để làm gương. Những lúc khó khăn, những lúc buồn, bóng dáng nhỏ bé với chiếc xe cọc cạch của thầy lại hiện lên và tôi lại có thêm nghị lực để vượt qua. Tôi muốn hết lòng, vô tư, tận tụy với học sinh, muốn yêu thương, lo lắng cho chúng như thầy tôi ngày trước. Tất cả những điều đó gần như để chuộc lỗi với thầy. Nhưng nhiều năm qua đi mà đôi mắt của thầy vẫn ám ảnh tôi, nét buồn trong đôi mắt ấy phải chăng là do lỗi của tôi?. Nỗi day dứt về tội lỗi mà mình gây ra vẫn không nguôi trong tôi mỗi khi nghĩ về thầy. Tôi viết thư về trường cũ, nhận lỗi với thầy tôi.
Cách đây vài năm, tôi về Hà Nội ăn tết và rủ các bạn đến thăm thầy. Thầy tôi đã về hưu. Mái tóc đen ngày xưa giờ đã bạc trắng, khuôn mặt thầy vẫn gầy đen hốc hác. Duy đôi mắt to của thầy không còn nét buồn như ngày xưa nữa, lấp lánh trong đó là niềm vui hạnh phúc. Một điều bất ngờ là chẳng ai giới thiệu mà thầy vẫn nhận ra và gọi đúng tên họ của tôi. Tôi vô cùng xúc động, ba mươi năm đã trôi qua, bao nhiêu lớp học sinh đã qua tay thầy, vậy mà không hiểu sao thầy vẫn nhận ra tôi... Hay trò lếu láo của tôi, thầy đã biết từ hồi ấy và không thể nào quên được kẻ đã sáng tác ra nó?... Chẳng biết lá thư năm nào có đến tay thầy không?... Thầy có tha thứ cho tôi không?... Ngồi với các bạn xung quanh thầy, tôi lúng túng, xấu hổ chẳng dám nói điều gì, mặc dù rất muốn một lần nữa xin lỗi thầy. Thầy nhìn tôi với ánh mắt ấm áp, thân thương.
Dù vậy tôi vẫn thấy day dứt… Không biết bây giờ còn có đứa lếu láo nào gọi thầy tôi bằng biệt danh mà tôi đã đặt cho thầy từ ngày ấy hay không?...
Ngọc Dung